Chuyện ngụ ngôn về một con bò!

20:49 0 Comments



Câu chuyện dưới đây có thể sẽ phải khiến bạn suy nghĩ và áp dụng cả đời!!


Ngày xửa ngày xưa, có một ông thầy giáo khôn ngoan và giàu kinh nghiệm 
muốn truyền cho một trong số những học trò của mình các bí quyết để sống một 
cuộc đời hạnh phúc và thịnh vượng. Vốn biết những khó khăn và rào cản quá 
nặng nề  mà nhiều người gặp phải trên con đường mưu cầu hạnh phúc, ông nghĩ 
rằng bài học đầu tiên là nên giải thích cho mọi người hiểu vì sao nhiều người chỉ
sống một cuộc đời bình bình và tầm thường.

Xét cho cùng,  ông giáo nghĩ,  có quá nhiều người, cả  nam lẫn nữ  dường 
như không thể vượt qua các trở ngại ngăn cản họ thành công và đành bằng lòng 
sống một cuộc đời thiếu hụt và  khốn khó.  Ông giáo biết rằng để  một người trẻ
tuổi lãnh hội được bài học rất quan trọng này, người đó nên tận mắt chứng kiến 
chuyện gì sẽ  xảy ra nếu chúng ta cho phép sự  tầm thường chi phối cuộc đời mình.
Để dạy được những bài học quan trọng này, ông giáo quyết định cùng với 
người học trò của mình lên đường đi đến một ngôi làng nghèo khổ  trong vùng. 
Cảnh khổ  đau và hoang tàn bày ra khắp nơi, và cư dân ở  đó có vẻ  như đã phó thác 
cuộc đời mình cho số mệnh. 

Ngay khi đến nơi, ông giáo yêu cầu người học trò tìm giúp cho mình một 
gia đình nghèo nhất trong khu vực. Đó sẽ là nơi họ tạm trú qua đêm.
Đi bộ  một lúc thì họ  ra đến rìa thị  trấn. Và ở  đó, giữa mênh mông, hai người 
dừng chân trước một căn lều nhỏ tồi tàn rệu rã nhất mà họ từng nhìn thấy.
Cái cấu trúc sắp sụp đổ này nằm ở ngoài rìa xa nhất của một nhóm nhỏ vài 
căn nhà vùng thôn quê. Hiển nhiên là căn lều này thuộc về  một gia đình nghèo 
khó nhất làng. Những bức vách đứng đó như chỉ nhờ vào phép lạ, đe dọa sẽ sụp 
đổ  bất cứ  lúc nào. Nước thấm qua cái mái nhà tạm  bợ  vốn trông chẳng có sức đâu 
mà che chắn được thứ gì, và đủ mọi thứ rác rưởi được gom góp lại chất dựa vào 
bức vách của ngôi nhà càng làm tăng thêm vẻ rệu rã.
Chủ nhà, được một chú nhóc con báo động về  sự có mặt của hai vị khách 
lạ, đã bước ra và chào đón họ một cách nhiệt tình.
“Xin chào ông bạn quý”, ông giáo đáp lễ. “Không biết ông có vui lòng cho 
hai kẻ bộ hành mệt lả này tá túc một đêm ở đây không?”
“Ở  đây chật chội lắm, nhưng nếu các vị  không ngại gì thì chúng tôi xin 
mời.”

Khi hai thầy trò bước vào  trong, họ  thật sự  sốc khi nhìn thấy một không 
gian tí tẹo, không rộng hơn mười lăm thước vuông, là nơi ở của tám con người. 
Bố, mẹ, bốn đứa con và hai ông bà cụ cố gắng hết sức để nhường mỗi người một 
chút trong tình trạng tù túng chật hẹp này.

Nhưng thân  hình nhếch nhác và gầy gò một cách đau đớn cùng với quần 
áo rách rưới là bằng chứng rõ ràng của sự  thiếu thốn phô bày cuộc sống hằng 
ngày của họ. Những gương mặt buồn bã và dáng vẻ  lòm khòm cho thấy rõ sự  bần 
cùng không chỉ đã chiếm lĩnh cơ thể họ, mà còn ăn sâu vào tâm hồn họ.
Hai vị  khách không cưỡng được cái nhìn xung quanh, trong lòng tự  hỏi liệu 
trong cái nơi khốn cùng này còn có thứ gì đáng giá không. Chả có gì!
Nhưng khi bước ra ngoài, họ  mới nhận ra mình đã lầm. Thật đáng kinh 
ngạc vì gia đình này còn có một thứ tài sản bất thường - khá đặc biệt trong hoàn 
cảnh này. Họ có một con bò.
Con bò thì chẳng có gì đáng nói, nhưng cuộc sống và hoạt động hàng ngày 
của họ  có vẻ  như chỉ  xoay quanh con vật này. “Cho bò ăn đi”. “Đừng để  nó khát”. 
“Buộc nó lại cho chắc”. “Đừng quên dẫn nó đi ăn”. “Vắt sữa bò đi!” Vậy đó, ta 
có thể  thấy con bò giữ một vai trò quan trọng trong gia đình này, mặc dù chút sữa 
ít ỏi do nó cung cấp chỉ đủ để họ sống vật vã qua ngày. 
15
Tuy nhiên, con bò có vẻ  phục vụ một mục đích lớn hơn. Nó  là thứ  duy nhất 
giữ cho họ khỏi rơi vào đường cùng. Ở một nơi mà mọi thứ đều khan hiếm, việc 
sở  hữu một tài sản có giá trị  như vậy đã mang lại cho họ  sự  ngưỡng mộ, nếu 
không muốn nói là sự ghen tị, từ những người hàng xóm.
Và ở nơi đó - trong chỗ bẩn thỉu và nháo nhác đó - hai thầy trò đã đặt lưng 
xuống nghỉ qua đêm.

Sáng hôm sau, trước khi bình minh kịp ló dạng, hai thầy trò lặng lẽ  lên 
đường một cách thận trọng để không đánh thức những người khác.
Người họ  trò nhìn lại, như muốn một lần nữa ghi nhận vào  tâm khảm khung 
cảnh tồi tàn đó. Từ  trong thâm tâm, anh hoàn toàn không hi ểu được vì sao thầy 
lại dẫn mình đến đây. Tuy nhiên, trước khi ra đến đường cái, ông giáo thì thầm: 
“Đã đến lúc cho con biết cái gì đã đưa chúng ta đến cái nơi tồi tàn này”.
Trong chuyến viếng thăm ngắn ngủi của mình, họ đã chứng kiến một cuộc 
sống hầu như toàn toàn bị ruồng bỏ, nhưng người học trò vẫn chưa hiểu được lý 
do khiến gia đình đó lại sống cực khổ  đến vậy. Vì sao họ  lại ra nông nỗi này? 
Điều gì đã buộc họ phải ở lại đây?

Ông giáo đi chầm chậm về phía con bò đang bị buộc vào một cái cột hàng 
rào lung lay cách căn nhà chưa đầy hai mươi thước. Khi còn cách con bỏ khoảng 
một bước chân, ông giáo rút ra một con dao găm mà ông mang theo bên mình. 
Người học trò cảm thấy hoang mang. Khi ông giáo giơ tay lên, anh như chết điếng 
khi nhận ra điều thầy mình sắp làm. Anh ta hầu như không tin vào mắt mình khi 
ông giáo già đưa lưỡi dao cứa ngọt một đường ngang cổ  con bò. Vết cắt chí mạng 
làm cho con vật ngã quị.

“Nhìn xem thầy đã làm gì?”, anh đau đớn hỏi ông giáo bằng một giọng thì 
thầm vì sợ  đánh thức mọi người. “Làm sao thầy lại có thể  giết chết con vật tội 
nghiệp đó chứ? Đây là loại bài học gì mà có thể  khiến cho gia đình đó phải lâm 
vào cảnh suy sụp hoàn toàn? Đây là tất cả những gì họ có. Rồi họ sẽ ra sao?”
Chẳng chút xao động với thái độ  đau khổ  của người học trò và làm ngơ 
trước những thắc mắc của anh ta, ông giáo bỏ đi, để lại cảnh tượng hãi hùng phía 
sau, bàng quan trước thảm cảnh mà gia đình đó sẽ phải đối mặt khi mà họ đã mất 
đi con bò. Anh học trò bước tiếp theo sau, trong lòng vẫn còn nhiều khúc mắc, và 
họ tiếp tục lên đường.
Còn cái gia đình đó bị buộc phải đối mặt với một tình trạng bấp bênh, đầy 
rẫy những khó khăn và khả năng bần cùng hơn nữa.
Trong suốt những ngày sau đó, anh học trò bị ám ảnh không thôi vì ý nghĩ 
khủng khiếp rằng cả  gia đình đó sẽ  chết đói hết nếu họ  không có con bò. Liệu anh 
16
còn có thể  rút ra kết luận nào khác từ  sự  mất mát nguồn sống duy nhất của họ? 
Trong nhiều tháng sau, anh lúc nào cũng ray rứt với những ý nghĩ này và với cảnh 
tượng của buổi sáng đau buồn hôm ấy.
Một năm qua đi và một buổi chiều nọ, ông giáo già gợi ý họ  trở  lại ngôi 
làng đó xem thử chuyện gì đã xảy ra với gia đình kia. Chỉ một gợi ý nhỏ về một 
sự  kiện dường như đã đi vào quên lãng nhưng cũng đủ  để  đánh thức trong lòng 
người học trò cái ký ức sống động về  bài học mà, cho đến tận bây giờ, anh vẫn 
không thể nào hiểu hết.

Một lần nữa, đầu óc anh học trò lại chìm ngập trong những suy nghĩ về gia 
đình khốn khổ  kia và vai trò mà anh đã tham gia trong phần số của họ. Chuyện gì 
đã xảy ra với họ? Họ còn sống sót qua cái đòn nặng nề đó không? Họ có bắt đầu 
nổi một cuộc sống mới không? Liệu mình có thể  giáp mặt với họ  sau những gì 
mà thầy đã làm? Mặc cho những ý nghĩ rối beng trong đầu, người học trò bất đắc 
dĩ nhận lời và miễn cưỡng tham dự chuyến đi có thể làm sáng tỏ  sự việc đã khiến 
anh phải khốn khổ cả năm qua.
Sau nhiều ngày, hai người đến ngôi làng cũ. Họ  tìm kiếm căn lều năm trước 
trong vô vọng. Cảnh vật xung quanh trông vẫn như xưa, nhưng chẳng thấy bóng 
dáng cái nơi tồi tàn mà họ  đã qua đêm ngày ấy đâu cả, thay vào đó là một căn nhà 
xinh xắn vừa mới được xây dựng trên nền đất cũ. Họ  dừng chân và hết nhìn ngược 
lại nhìn xuôi để biết chắc mình đã đến đúng chỗ.
Người học trò lo ngại rằng cái chết của con bò là một đòn giáng quá mạnh 
khiến gia đình trơ trụi như họ không thể nào qua nổi. Có lẽ họ đã bị buộc phải bỏ
đi và một gia đình khác khá giả hơn đã may mắn làm chủ mảnh đất và dưng nên 
ngôi nhà mới này. Còn khả  năng nào khác đâu chứ? Chắc hẳn sự xấu hổ đã khiến 
họ phải tha hương.
Trong lúc những ý nghĩ đó đang lẩn quẩn trong đầu, anh học trò cứ lưỡng 
lự  giữa ý muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho gia đình nọ  và việc mặc kệ  họ  để  tiếp 
tục lên đường, né tránh cái việc chẳng thú vị  gì là xác minh sự  nghi  ngờ  tồi tệ
trong đầu mình. Nhưng cuối cùng anh quyết định khám phá - mình cần phải biết, 
cho nên anh gõ cửa ngôi nhà và đứng đợi.
Trong chốc lát, một người đàn ông vui vẻ từ trong nhà bước ra. Thoạt tiên 
anh học trò không nhận ra ông ta. Nhưng rồi anh không thể  giấu được vẻ  thảng 
thốt khi nhận ra đó chính là người đã cho họ ngủ trọ năm ngoái. Hiển nhiên cùng 
là một người, nhưng có cái gì đó rất khác lạ  ở  con người này. Ông ta mặc quần 
áo sạch sẽ và chải chuốt gọn gàng. Ông ta có nụ cười trên đôi môi và có  sự  linh 
lợi trong đôi mắt. Rõ ràng đã xảy ra một điều gì đó có ý nghĩa to lớn trong đời 
ông ta. 
17
Người thanh niên gần như không thể tin vào mắt mình. Làm sao lại có thể
như thế? Liệu chuyện gì có thể  xảy ra chỉ  trong thời gian một năm? Anh ta bổ
nhào lại chào hỏi người đàn ông nọ  và ngay lập tức “truy vấn” ông ta về vận may 
nào đã đến với ông và gia đình.
“Chỉ năm ngoái, khi chúng tôi ghé qua đây”, anh hỏi, “các ông dường như 
đang sống trong tình trạng bất hạnh và vô vọng. Hãy cho tôi biết đã xảy ra chuyện 
gì làm các ông thay đổi nhiều như thế. Điều gì đã khiến các ông gặp hên đến 
vậy?”
Không đếm xỉa gì đến việc chính hai người khách này đã là thủ phạm giết 
con bò, người đàn ông mời họ  vào nhà và bắt đầu kể  câu chuyện ly kỳ  của gia 
đình mình  -  câu chuyện sẽ  làm thay đổi cuộc đời anh bạn trẻ  của chúng ta mãi 
mãi.
Ông chủ nhà kể rằng thật là một sự trùng hợp kỳ lạ, khi ngay cái ngày mà 
hai thầy trò rời đi, không biết kẻ bất lương nào do ganh ghét với tài sản hiếm có 
của gia đình ông đã nhẫn tâm cắt cổ con vật tội nghiệp đó.
“Tôi phải thừa nhận rằng”, người đàn ông nói, “phản  ứng đầu tiên của 
chúng tôi là vô cùng tuyệt vọng và đau khổ. Trong suốt một thời gian dài, sữa của 
con bò đó là nguồn sống duy nhất mà chúng tôi có; cuộc sống của chúng tôi phụ
thuộc vào nó. Con bò đó là tâm điểm cho sự tồn tại hằng ngày của chúng tôi, nói 
thật lòng, việc có được con vật ấy tạo cho chúng tôi sự ngưỡng mộ từ hàng xóm.
“Không lâu sau cái ngày bi đát  ấy, chúng tôi nhận ra rằng nếu không làm 
một cái gì đó, chúng tôi chỉ  có thể  rơi  vào tình huống tệ  hại hơn. Chúng tôi đã 
xuống tới đáy cuộc đời khi mất đi con vật  ấy. Chúng tôi cũng cần phải ăn và nuôi 
nấng con cái nữa. Và rồi chúng tôi phát hoang một miếng đất phía sau nhà, gieo 
vài hạt rau củ quả. Đó là cách mà chúng tôi sống qua ngày trong vài tháng đầu.
“Một thời gian sau, chúng tôi nhận thấy rằng mảnh vườn đó cung cấp nhiều 
lương thực hơn mức chúng tôi cần. Nếu có thể  bán cho những người xung quanh, 
chúng tôi có thể  mua thêm hạt giống, và không lâu sau, chúng tôi không những 
đủ ăn và còn có thể đem ra chợ bán.
“Và rồi điều đó xảy ra!” người đàn ông hồ  hởi nói. “Lần đầu tiên trong đời 
chúng tôi có tiền mua thực phẩm và quần áo. Và chúng tôi nhận thấy niềm hy 
vọng cho một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa bao giờ nghĩ, ngay 
cả trong mơ, là có thể trở thành hiện thực.
“Chúng tôi xây căn nhà nhỏ  này hồi tháng trước. Có vẻ  như chuyện mất 
con bò đã mở mắt cho chúng tôi thấy một cuộc sống khác có triển vọng.” 
18
Anh bạn trẻ  lấy làm kinh ngạc khi nghe câu chuyện. Cuối cùng anh cũng 
nhận ra bài học mà người thầy đáng kính đã muốn dạy cho anh. Đột nhiên mọi 
thứ  trở  nên rõ ràng. Cái chết của con bò không hề  là dấu chấm hết dành cho họ
như anh đã lo sợ, mà đã mở ra một cuộc sống mới với nhiều cơ hội tốt hơn.
Người chủ nhà mời hai thầy trò ở lại qua đêm và họ vui vẻ nhận lời. Sáng 
hôm sau, họ  chào tạm biệt ông chủ  và gia đình, tiếp tục cuộc hành trình của mình. 
Ông giáo, vốn lặng thinh từ bấy đến giờ, hỏi anh học trò, vốn vẫn đang còn kinh 
ngạc với những gì anh ta được nghe kể và chứng kiến: “Con có nghĩ là gia đình 
nọ vẫn có thể đạt được những điều mà họ gặt hái trong năm vừa qua nếu như họ
vẫn còn con bò đó?”
“Có lẽ không,” người học trò trả lời không do dự.
“Vậy bây giờ con hiểu chưa? Con bò mà họ yêu quý như báu vật chính là 
sợi dây xích trói buộc cuộc đời họ với đói nghèo khổ cực. Họ đã đinh ninh rằng 
con bò đó giúp họ khỏi bị suy sụp. Nhưng phải đợi đến khi mất đi sự an toàn giả
tạo đó thì họ mới bị buộc phải nhìn sang một hướng mới.”
“Nói cách khác,” anh học trò tiếp lời, “con bò - con vật mà hàng xóm của 
họ  coi như là ơn phước  -  đã cho họ  cái cảm giác mình không phải đang sống trong 
sự bần cùng, nhưng thực ra cuộc sống của họ rất thảm hại.”
“Đúng là như thế,” ông giáo già lên tiếng. “Đó là điều sẽ xảy ra khi con tin 
rằng cái thứ ít ỏi mình có được là đã đủ lắm rồi. Chỉ một ý nghĩ đó thôi đã là sợi 
xích nặng nề ngăn không cho con tìm kiếm những thứ khác tốt hơn. Sự thỏa mãn 
bắt đầu hủy hoại cuộc đời con. Con chấp nhận các hoàn cảnh của mình dù không 
hài lòng với chúng. Con biết rằng con không vui sướng với vị trí của mình trong 
cuộc sống, nhưng con cũng không thấy khốn khổ. Con thất vọng với cuộc sống 
mà mình được hưởng nhưng sự  bất mãn không đủ  lớn để  con tìm cách làm một 
cái gì đó với nó. Con có thấy điều đó bi đát thế nào không?
“Khi con có một công việc mà con không thích, cái công việc mà thậm chí 
chẳng đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu và cũng chẳng mang lại cho con bất 
cứ sự thỏa mãn cá nhân nào hoặc cho con cuộc đời mà con muốn, thì quyết định 
bỏ  đi và tìm công việc khác là điều dễ  dàng. Nhưng khi cái công việc mà con 
không thích đó giúp con trả được nợ, sống sót, và cũng tận hưởng được một vài 
tiện nghi nho nhỏ, thì con dễ  dàng rơi vào cái bẫy hài lòng với suy nghĩ rằng ít 
nhất thì mình cũng có được một cái gì đó. Cuối cùng, con biện minh rằng  khối 
người muốn cái công việc đó mà có được đâu.
“Cũng giống như con bò, thái độ  đó luôn luôn kiềm hãm con. Nếu không 
gạt bỏ  nó đi, mãi mãi con sẽ  không thể  thấy được gì khác hơn ngoài những thứ
con đã biết lâu nay. Con sẽ  trở  thành một nạn nhân chung thân của những giới 
19
hạn mà con tự đặt ra trong cuộc sống của mình. Điều đó cũng giống như con tự
bịt mắt mình ở vạch xuất phát và cầu nguyện cho mình thắng cuộc.”
Người học trò càng nghe càng kinh ngạc. Anh cảm thấy thích thú với những 
nhận định của thầy mình và bắt đầu hiểu cặn kẽ  những vấn đề  đó. “Chúng ta ai 
cũng có những con bò trong đời mình. Chúng ta mang trên mình gánh n ặng của 
những niềm tin sai lầm, những lời biện bạch, những nỗi sợ  và những định kiến. 
Bi đát thay, tất cả những hạn chế do ta tự áp đặt cho mình đã trói buộc chúng ta 
vào một cuộc sống tầm thường.”
“Không chỉ  có vậy,” ông giáo già tiếp lời, “nhiều người ngoan cố  giữ  lại 
cái lý do họ không thể  sống cuộc đời mà họ luôn mơ ước. Họ  tạo nên những lời 
bào chữa hầu như rất đáng tin để  biện hộ với chính mình và với người khác, và 
tiếp tục sống với những xáo động nội tâm khi họ nhận ra rằng những lý lẽ đó có 
thể đánh lừa được người khác chứ không lừa được bản thân mình.”
“Thật là một bài học lớn,” người học trò trầm ngâm nói, đồng thời hướng 
suy nghĩ về những con bò của mình.
Trên đường về, anh cẩn thận xem xét tất cả những hạn chế mà anh đã vận 
vào mình trong cuộc đời. Và anh quyết định sẽ loại bỏ  tất cả những niềm tin đã 
trói buộc anh vào một cuộc đời làng nhàng và tầm tường, cũng như đã ngăn cản 
anh thể hiện tiềm năng thật sự của mình.
Không nghi ngờ gì nữa, anh tự nhủ, ngày hôm đó đã đánh dấu sự bắt đầu 
một cuộc đời mới, một cuộc đời không có bò. 
--------------
Trích: "Ngày xưa có một con bò".

Unknown

Some say he’s half man half fish, others say he’s more of a seventy/thirty split. Either way he’s a fishy bastard. Google

0 nhận xét: